==HOTLINESHOW==  ==HOTLINESHOWOTHER==

Sở hữu rất nhiều cảnh quan thiên nhiên đa dạng, Đà Nẵng không chỉ thu hút khách thăm quan với bãi biển dài hơn 60 km, được tạp chí Forbes của Mỹ bình chọn là 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, mà còn có rất nhiều cảnh quan ấn tượng như bán đảo Sơn Trà, khu thăm quan Bà Nà Hills, danh thắng Ngũ Hành Sơn… Phần 3 của bài viết, chúng tôi tiếp tục giới thiệu đến các bạn những địa điểm đẹp khi tham gia hành trình Đà Nẵng phố cổ Hội An, nghĩa trang Hòa Vang, đèo Hải Vân, làng cổ Túy Loan.

Phố Cổ Hội An

Hội An là một thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam có nhiều khu phố cổ được xây từ thế kỷ 16 và vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn đến nay. Trong các tài liệu cổ của phương Tây, Hội An được gọi Faifo.  Phố cổ Hội An được công nhận là một di sản thế giới UNESCO từ năm 1999. Đây là địa điểm thu hút được rất nhiều khách hành trình Đà Nẵng - Hội An.

Phố Cổ Hội An

Địa lý
Hội An trở thành thành phố vào năm 2008 trên cơ  sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thành phố Hội An, với 6.146,88 ha, 121.716 nhân khẩu.
Khi thành lập thành phố, Hội An có 13 đơn vị hành chính, gồm 9 phường: Minh An, Sơn Phong, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Thanh Hà, Tân An, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại; 4 xã là Cẩm Hà, Cẩm Thanh, Cẩm Kim và xã đảo Tân Hiệp – Cù lao Chàm.
Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Quảng Nam, cách Thành phố Ðà Nẵng về phía Nam 28 km.
- Phía Ðông giáp biển Ðông
- Phía Nam giáp Huyện Duy Xuyên
- Phía Tây và Bắc giáp Huyện Ðiện Bàn

Danh thắng cảnh tại đô thị cổ Hội An

Chùa Cầu

Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An. Nằm tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú – Hội An, Chùa Cầu (hay còn gọi chùa Nhật Bản) là công trình kiến do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16. Do ảnh hưởng của thiên tại địch hoạ, Chùa Cầu đã qua nhiều lần trùng tu và dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt, Trung.
Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Trên cửa chính của Chùa Cầu có chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều (có nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến) – tên do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt trong một lần viếng thăm Hội An vào năm 1719. Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù – một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản và mỗi lần Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.

Nhà cổ Quân Thắng (Số 77. Trần Phú – thị xã Hội An)

Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ Trung Hoa. Qua năm tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Được biết, toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Đây là một điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới Hội An của khách thăm quan.

Nhà cổ Tấn Ký (Số 10. Nguyễn Thái Học – thị xã Hội An)

Được xây dựng cách đây gần 200 năm, nhà Tấn Ký có kiểu kiến trúc hình ống – đặc trưng của loại nhà phố Hội An, với nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức năng riêng. Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông với bến sông để làm nơi xuất, nhập hàng hoá. Vật liệu trang trí nội thất ngôi nhà chủ yếu là các loại gỗ quý và được trạm trỗ, điêu khắc rất tinh xảo các hình về giao long, hoa quả, bát bửu, dải lụa … thể hiện sự sung túc của các thế hệ chủ nhân.
Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia.

Nhà cổ Phùng Hưng (Số 4. Nguyễn Thị Minh Khai – thị xã Hội An)

Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp các thương nhân ở thương cảng Hội An xưa. Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà Phùng Hưng không trạm trỗ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô một cách cố ý.
Nhà Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia vào ngày tháng 6 năm 1993

Hội quán Phúc Kiến (Số 46. Trần Phú – thị xã Hội An)

Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa Kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài … hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người.
Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23tháng 3 âm lịch) … tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều khách thăm quan trong và ngoài nước đến tham gia.
Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.

Hội quán Triều Châu (Số 157. Nguyễn Duy Hiệu – thị xã Hội An)

Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 để thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện – vị thần giỏi chế ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên biển được thuận buồm xuôi gió, đắc lợi.
Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo, cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.

Hội quán Quảng Đông (Số 17. Trần Phú – thị xã Hội An)

Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885, thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của bang.
Với nghệ thuật sử dụng hài hào các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.

Hội quán Ngũ Bang (Số 64. Trần Phú – thị xã Hội An)

Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương hay Trung Hoa hội quán, do các thương khách người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng vào năm 1741 để làm nơi thờ tự Thiên Hậu Ngũ Bang mang đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa

 

Chùa Ông (Số 24. Trần Phú – thị xã Hội An)

Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753, 1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung – tín – tiết – nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.

Quan âm Phật tự Minh Hương (Số 7. Nguyễn Huệ – thị xã Hội An)

Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.

Nhà thờ tộc Trần (Số 21. Lê Lợi – thị xã Hội An)

 

Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa và người Việt. Tạo lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m2, có nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật liên quan đến dòng họ, nhà ở … Đây là nơi tụ họp con cháu vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề trong dòng tộc.

Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều khách thăm quan quan tâm.

Bảo tàng Lịch sử – Văn hóa

Được thành lập vào năm 1989, bảo tàng trưng bày 212 hiện vật gốc và tư liệu có giá trị bằng gốm, sứ, đồng sắt, giấy, gỗ…phản ánh các giai đoạn phát triển của đô thị- thương cảng Hội An từ thời kỳ văn hoá Sa Huỳnh (từ thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên) đến thời kỳ văn hoá Chăm (từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 15) và văn hoá Đại Việt, Đại Nam (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19). Đến thăm Bảo tàng Lịch sử – Văn hoá Hội An, khách thăm quan sẽ có được cái nhìn tổng quát về tiến trình lịch sử cũng như bề dày văn hoá của đô thị cổ.

Bảo tàng gốm sứ Mậu Dịch (Số 80. Trần Phú – thị xã Hội An)

Được xây dựng vào năm 1995, bảo tàng lưu giữ trên 430 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18. Hầu hết các hiện vật là gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ Trung Cận Đông, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam … minh chứng cho vai trò quan trọng của thương cảng Hội An trong mạng lưới mậu dịch gốm sứ trên biển vào các thế kỷ trước, đồng thời cũng cho thấy quan hệ giao lưu văn hoá- kinh tế quốc tế đã từng diễn ra rất mạnh mẽ ở Hội An.

Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh (Số 149. Trần Phú – thị xã Hội An)

Bảo tàng là nơi cung cấp những thông tin phong phú về cư dân cổ thuộc hệ văn hoá Sa Huỳnh – chủ nhân cảng thị Hội An sơ khai từng có quan hệ giao lưu Trung Hoa, Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á. Tại đây trưng bày 216 hiện vật văn hoá Sa Huỳnh có niên đại trên dưới 2000 năm được phát hiện qua các đợt khảo sát, khai quật khảo cổ học tại các địa điểm: Hậu Xá, Thanh Chiêm, An Bàng, Xuân Lâm … từ năm 1989 đến năm 1994.
Các hiện vật tại bảo tàng được đánh giá là bộ sưu tập độc đáo nhất của Việt Nam hiện nay về văn hoá Sa Huỳnh.

Nghĩa Trang Liệt Sỹ Nghĩa Trũng Hòa Vang

 

Nghĩa trũng Hòa Vang là ngôi mộ lớn của nghĩa sĩ được lập tại Hòa Vang theo sắc tứ vua ban để quy tụ hài cốt các tướng sĩ vì nước quên thân trong cuộc kháng chiến chống quân Pháp xâm lược năm 1858. Ban đầu, nghĩa trũng được lập ở Trũng Bò làng Nghi An, nay thuộc P. Hòa Phát, Q. Cẩm Lệ.

Khoảng năm 1920, Pháp mở sân bay Đà Nẵng, phải dời nghĩa trũng về vườn Bá làng Khuê Trung. Đến năm 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay về phía nam, lại phải dời nghĩa trũng đến chỗ hiện nay, P. Khuê Trung, Q. Cẩm Lệ. Hiện nơi đây có 1.056 ngôi mộ liệt sĩ.

Mặt trời trên lá mù u

Tôi về thăm khu di tích lịch sử nghĩa trũng Hòa Vang, nay thuộc P. Khuê Trung, Q. Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, trong những ngày mùa thu. Đã 150 năm - ngày Đà Nẵng đánh thắng trận đầu trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp bảo vệ Tổ quốc (1-9-1858 – 1-9-2008), thời gian như những thước phim quay lại từng thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc. Và TP Đà Nẵng hôm nay đã từng trải qua bao thăng trầm dâu bể, đã có biết bao người ngã xuống cho nền độc lập tự do của mảnh đất này. Trong khói hương rưng rưng, tôi cứ hình dung về hào khí của nghĩa quân thời đó. Bao năm qua, cây mù u vẫn đứng hiên ngang trong khu nghĩa trũng (KNT) để chứng kiến bao đổi thay của cuộc sống nơi đây. Những dãy mộ không tên san sát, những bát hương đầy, những khóm hoa, những hàng cây mới được trồng lên xung quanh..., tất cả hòa vào trong tôi cảm giác khó tả. Cái cảm giác vừa thân thương xen lẫn tự hào.

hành trình Đà Nẵng về thăm nghĩa trũng hòa vang

Theo ông Huỳnh Trung, Hội Người cao tuổi P. Khuê Trung, số mộ liệt sĩ ở đây mà hằng ngày ông thường ghé về hương khói là 1.056 ngôi mộ, ngoài ra còn vài chục ngôi mộ không phải là mộ liệt sĩ nhưng trong quá trình di dời, người dân gặp phải nên đưa luôn vào trong khuôn viên nghĩa trũng. Tôi không khỏi ngạc nhiên vì trong khuôn viên nghĩa trũng, có 3 cây có độ tuổi lớn là cây mù u, cây mai bà và cây sung. Ở đây trước kia rất hoang vu, cỏ mọc ngút ngàn. Theo số liệu, ngày xưa toàn bộ KNT diện tích khoảng 4.000m2 nhưng hiện nay chỉ khoảng 3.000m2. Phần còn lại đã được mở rộng thành đường sá dẫn vào khu di tích. Trong quá trình đô thị hóa, đường vào KNT đã được nâng cấp bê-tông hóa và thảm nhựa vào tới cổng. Năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin đã cấp bằng công nhận nghĩa trũng Hòa Vang là di tích lịch sử cấp quốc gia. Trên đất nước Việt Nam, cũng chỉ mỗi nơi này được gọi là nghĩa trũng.

 

Tôi ấn tượng bởi tán lá mù u nhiều năm tuổi đang che rộng cả một khoảng trời đầy gió nơi đây. Trên cao ấy, cây đang trò chuyện và hình như khu vực nghĩa trũng càng thêm linh thiêng khi nghe từng đợt gió về lao xao trên tán lá. Cây mù u này đã chứng kiến bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu công sức và cả những giọt nước mắt của người hôm nay. Cây mù u đã có mặt nơi này như một anh hùng trong chiến trận, bây giờ vẫn vươn cao trong nắng sớm, đón những ngọn gió lành về với anh em mộ chí nơi đây. Tôi ngồi lặng dưới gốc mù u và hình dung về chiến trận ngày xưa với gậy gộc, với những tiếng hô hào lấn át tiếng bom đạn. Đó không chỉ là chiến công của người dân Đà Nẵng, Quảng Nam mà còn là sự hợp lực của hàng vạn chiến sĩ nghĩa binh trên cả nước với các vị tướng như Đài Trí, Châu Phước Minh, Phạm Thế Hiển, Ông Ích Khiêm, Lê Đình Lý, Nguyễn Tri Phương. Mỗi gốc cây, mỗi viên gạch, cả cái giếng được xây theo kiến trúc Chăm nơi đây đều để lại trong tôi những ấn tượng. Tôi thấy ấm lòng bởi niềm tự hào và biết ơn sâu sắc khi đứng lặng bên từng hàng mộ.

 

Ngĩa trũng hòa vang

Nghĩa Trũng Xưang

“Người xưa đã xa rồi, nay dựng tượng đài mà vẫn bàn đến đời của họ và nghĩ đến con người thời ấy - Tổ quốc thiêng liêng với những chí sĩ anh hùng thời ấy, noi dấu đời trước để chấp cánh cho đời sau” (Hai câu đối ở nghĩa trũng Hòa Vang, bản dịch của Lê Duy Anh – Lê Hoàng Vinh). Đó là dấu ấn lịch sử và cũng là lời người đi trước để lại răn dạy con cháu hôm nay. Cụ Huỳnh Ngọc Tế, 78 tuổi, Hội Người cao tuổi P. Khuê Trung, nguyên là cơ sở cách mạng, là xã trưởng Khuê Trung những năm đầu 1970 kể rằng, ông biết đến những ngôi mộ liệt sĩ ở nghĩa trang này khi ông 20 tuổi. Hồi đó, ông cùng lực lượng thanh niên làng Khuê Trung đóng quách gỗ để đưa hài cốt các liệt sĩ về đây.

 

Trong ký ức xa xôi của ông, những năm tháng ấy là khoảng thời gian tuổi trẻ ý nghĩa nhất đời. Ông vui mừng khi kể cho tôi nghe những đổi thay trong khu vực nghĩa trũng. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, KNT hôm nay đã được nâng cấp khang trang, sạch đẹp. Ông băn khoăn rằng có 3 con đường để đi đến nghĩa trũng, nhưng những con đường này đều ngắn và chật. Mỗi năm đến ngày lễ rước nước vào tế lễ, đi lại rất khó khăn. Mong muốn của ông cũng như của người dân khu vực này là có con đường rộng hơn. Tôi hiểu những băn khoăn đó không chỉ của những người có trách nhiệm mà tôi còn hiểu, trong quá trình đô thị hóa, dân cư ngày càng đông đúc, các chư phái tộc của KNT đã giao lại cho Hội Người cao tuổi của P. Khuê Trung chăm lo, quản lý nơi này. Nhưng hiện nay, cả khu vực này chỉ có một người túc trực quét dọn, hương đèn.

Được biết, hệ thống đèn chiếu sáng trong khuôn viên nghĩa trũng đã bị hư hỏng nặng sau một thời gian đưa vào sử dụng, diện tích đất còn lại phía sau nhà thờ hiện nay có 3 hộ dân đang sử dụng để trồng rau. Cải thiện đời sống cho người dân là một việc cần làm, nhưng nên chăng không sử dụng đất nghĩa trang vào việc này mà khoảng đất trống có thể dùng trồng hoa, tạo cảnh quan môi trường và làm đẹp cho KNT?

Thời gian gần đây, tình trạng trộm cắp vặt ban ngày tại khu vực Khuê Trung diễn ra nhiều, Hội Người cao tuổi của P. Khuê Trung đã đưa toàn bộ đồ dùng tế lễ về gửi ở UBND phường vì sợ kẻ gian lấy cắp. Chính quyền địa phương cần phối hợp với các ban, ngành liên quan thành lập một Ban quản lý di tích ít nhất 3 người, để có người chăm sóc, quét dọn toàn bộ nghĩa trang, và có kế hoạch sử dụng khoảng đất trống này nhằm phục vụ mục đích chung là tôn tạo cho khu di tích. Đồng thời, khi có khách tới tham quan, tìm hiểu về khu di tích nghĩa trũng, cần có người giải thích, thuyết trình về lịch sử của khu di tích này.

Vẫn còn đó những nỗi lo, không chỉ cho di tích nghĩa trũng Hòa Vang mà còn nhiều di tích khác trên địa bàn TP Đà Nẵng. Hiện nay, quá trình đô thị hóa đã ảnh hưởng ít nhiều đến cảnh quan môi trường, đặc biệt là làm sao gìn giữ và phát huy những khu di tích lịch sử, đó mới là văn hóa tinh thần để cân bằng lại nhân tâm của mỗi người.

Đèo Hải Vân

Đèo Hải Vân nằm trải dài theo sườn núi Hải Vân, giữa tỉnh Thừa Thiên – Huế và thành phố Đà Nẵng. Đây là đèo cao nhất (khoảng 500m so với mực nước biển), đầy hiểm trở và cũng là đỉnh núi cuối cùng của một mạch Trường Sơn đâm ngang ra biển.

Đèo Hải Vân

Đèo Hải Vân chênh vênh một bên là núi rừng, một bên là biển cả, đỉnh đèo mây phủ quanh năm nên còn được gọi là “đèo Mây”. Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và QuảngNam. Trước đây, vào thế kỷ 13, vùng đất này thuộc về 2 châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa, được vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần. Ngay trên đỉnh đèo, dấu vết tiền nhân vẫn còn để lại: những cửa đèo và thành lũy đắp ngang. Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ “Hải Vân Quan”, cửa trông xuống Quảng Nam đề “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” (đây là từ đề tặng của vua Lê Thánh Tôn khi dừng chân ngắm cảnh nơi này).

Trên con đường xuyên Việt qua dải đất miền Trung đầy nắng gió, đèo Hải Vân lâu nay đã trở thành nơi thưởng ngoạn lý tưởng của khách thăm quan vào Nam, ra Bắc. Từ Đà Nẵng theo quốc lộ 1A về phía bắc, sau khi qua vùng Nam Ô, Lữ khách bắt đầu lên đèo Hải Vân. Đường đèo quanh co, khúc khuỷu men theo triền núi, uốn lượn như dải lụa vắt ngang giữa trời mây. Gió như đàn ngựa giong ruổi dặm trường, mây như từ trên trời tuôn xuống. Có những lúc mây nhiều che phủ cả đoạn đèo, quấn quýt níu lấy chân khách thăm quan làm bước chân người đến đây như lạc vào cõi nào khác lạ, huyền ảo khói sương. Cũng từ đây, vào những ngày đẹp trời, Lữ khách có thể thấy rõ toàn cảnh thành phố Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa - Bán đảo Sơn TràCù Lao Chàm... và những bãi cát vàng chạy dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.

 

Những gì thiên nhiên ban tặng, qua thời gian và qua bàn tay con người, sẽ trở thành những giá trị nhân văn. Đến Hải Vân là đến với nơi giao thoa giữa hai vùng đất, là thỏa mãn tâm lý chiếm lĩnh đỉnh cao, hòa mình trong âm vọng sử thi của bao dấu chân người Việt xưa đi mở cõi, bồi hồi thương nhớ quá khứ thẳm sâu của khúc ruột miền Trung.

Làng Cổ Túy Loan

Làng Cổ Túy Loan nằm ở hướng tây nam thành phố Đà Nẵng, thuộc địa phận xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang. Làng Tuý Loan đã hình thành trên 500 năm, mang đậm dấu ấn của lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam.

khách thăm quan đi theo quốc lộ 14B khoảng 15km sẽ đến địa phận làng cổ. Dòng sông mang cùng tên làng “Tuý Loan” uốn lượn, ôm ấp lấy làng. Phong cảnh ở đây rất nên thơ, mộc mạc, hữu tình và tiềm ẩn nhiều điều thú vị.

Dân làng Tuý Loan đã xây dựng đình làng để thờ các vị tiền hiền, tổ tiên. Đình Tuý Loan là một di tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng quốc gia, một địa chỉ nghiên cứu, tìm hiểu và tham quan hấp dẫn. Đình làng Tuý Loan được xây ở vị trí trung tâm, vào năm Thành Thái thứ nhất (1889) với diện tích trên 110m² trong khuôn viên rộng hơn 8.000m², thoáng đãng, hướng quay ra sông, nhìn về thế núi, sát đường lớn và đặc biệt có cây đa cổ thụ cành lá xum xuê chắc đã có hơn trăm tuổi gây ấn tượng và cảm xúc khó quên. Tại văn bia đặt trong đình còn có bài ký của Tam giáp tiến sĩ Nguyễn Khuê người huyện Thanh Trì (Hà Nội) ghi lại việc lập đình. Bài ký có đoạn: “Đình gồm một tòa chính tẩm, một tòa tiền đường đều làm bằng gỗ quý và lợp ngói'”. Văn bia ở Nhà ngũ tộc trong làng ghi rằng năm vị tiền hiền Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê được chiếu vua Lê Thánh Tôn đi mở mang bờ cõi về phương nam (năm Hồng Đức nguyên niên 1470). Năm vị dừng chân chọn nơi đây để lập nghiệp khai khẩn làm ăn và đặt tên cho làng là Tuý Loan.

 

Làng Cổ Túy Loan

 

Đã hơn một thế kỷ trôi qua, đình làng vẫn còn gần như nguyên vẹn, trang nghiêm, trầm mặc dưới bóng đa cổ thụ và giữa bao các rặng tre làng. Sân đình có xây trụ biểu, bình phong, vẽ các câu đối... rất uy nghi, tôn kính. Hằng năm, đến ngày mồng chín tháng giêng làng cúng đầu năm và hội làng cũng được tổ chức dịp này với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao bổ ích, vui nhộn như: đua thuyền, hát hò khoan đối đáp, thi nướng bánh tráng... thu hút những trai tài, gái sắc, dân làng nhiều nơi và khách thập phương đến dự hội và tham quan. Đến ngày 11-12 tháng 8 âm lịch hằng năm, cả làng lại long trọng thiết lễ tế đình để tỏ lòng biết ơn các vị tiền hiền đã có công khai khẩn lập làng và cầu mong quốc thái dân an.

 

Mái đình, cây đa, bến nước... là biểu tượng đặc trưng của làng cổ Việt Nam. Ở đây, làng Tuý Loan có vị trí thuận lợi, là nơi hội tụ giữa đường thủy và đường bộ. Cảnh vật nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc, có dòng sông, bến nước, bãi bờ, làng quê, đồng lúa, cầu qua, chợ búa... Tương truyền Túy Loan xưa phát triển sầm uất, nổi tiếng trù phú, cảnh trên chợ dưới sông tấp nập. Chợ Tuý Loan như là một trung tâm quy tụ hầu hết sản vật quanh vùng: cá mắm từ Hội AnĐà Nẵng lên, lâm sản từ miền Tây xuống, chiếu, nón, nong rổ Cẩm Nê về... Nghề làm bánh tráng và mì Quảng ở Tuý Loan nổi tiếng từ xa xưa. Hiện nay còn trên 5 lò bánh, trong đó có lò Bà Tỉnh với nghề gia truyền hơn 40 năm. Để có bánh tráng ngon phải chế biến đủ năm thứ gia vị mắm, muối, đường, tỏi và mè. Còn để có con mì ngon dẻo, phải chọn ra được gạo 13/2 sản xuất từ vùng đất cát không phèn của xã Đại Hiệp (huyện Đại Lộc). Pha chế là bí quyết, một nghệ thuật của làng để bánh tráng và mì có hương vị độc đáo mà chẳng nơi nào sánh được. Dân gian đã truyền tụng câu ca rằng:

 

Tuý Loan trăm thứ đều ngon

Vừa vừa cái miệng kẻo chồng con hết nhờ !

 

Khách đến trải nghiệm Đà Nẵng, ra Bắc vào Nam hãy ghé lại Tuý Loan, dạo một vòng quanh làng và chợ họp ven sông, thưởng thức hương vị mì Quảng và bánh tráng, chiêm ngưỡng đình làng và không gian làng cổ. Có dịp dự hội làng quý khách sẽ rất thú vị và có ấn tượng khó quên về một làng cổ, một đình làng với cảnh sắc thiên nhiên mộc mạc, con người ân tình và nồng hậu, đậm đà bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam rất đáng tự hào và trân trọng.

Những điểm khám phá Đà Nẵng Hấp Dẫn ( P3 )

Những điểm khám phá Đà Nẵng Hấp Dẫn ( P3 )
28 3 31 59 bài đánh giá
==HOTLINESHOW==